Skip to main content

Lăng Bà Vú – Wikipedia tiếng Việt


Lăng Bà Vú nằm ở khóm 3, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Lăng Bà Vú là một công trình kiến trúc chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa tiêu biểu và đặc sắc, trong đó yếu tố mỹ thuật chiếm vai trò chủ đạo. Một số yếu tố nghệ thuật cung đình và dân gian đầu thế kỷ 19 đã được thể hiện ở đây khá rõ nét.

Truyền thuyết của nhân dân trong vùng kể lại rằng, thuở trước, khi chúa Nguyễn Ánh đang lúc gian nan và khốn khó, một lần bị quân Tây Sơn đánh bại và truy đuổi gắt gao, quân lính theo hầu không còn mấy người, lương thực cạn kiệt, những tưởng rằng phải bỏ xác lại nơi này, may sao, có một người phụ nữ nhà khá giả ở thôn Mỹ Hiệp (Ninh Hòa) thương tình cho ăn, lại chỉ đường cho trốn chạy thoát được vào Nam. Nhiều năm sau, khi đã chiến thắng được triều Tây Sơn và lên làm vua, nhớ lại công ơn của người đã cứu giúp năm nào, nhà vua bèn sai người về báo đáp thì người xưa đã không còn nữa. Ðể ghi nhớ công ơn của bà, nhà vua xuống chiếu phong tặng cho bà là Nhũ mẫu, đồng thời truyền thợ giỏi đang xây dựng cung điện ở Huế và thợ khéo ở Khánh Hòa đến thôn Mỹ Hiệp để xây lăng cho bà.





  • Theo lịch sử, năm 1777, khi nhà Tây Sơn hùng mạnh, vua Quang Trung khôi phục miền Nam, bắt giết chúa Nguyễn; Nguyễn Ánh được thoát thân.

  • Theo truyền thuyết, trên đường chạy trốn khỏi quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh cùng một số tùy tùng đã tìm đến trú ẩn tại nhà Bà Vú ở Ninh Hòa, được hầu đãi cơm nước và lo nơi trú ẩn an toàn.

  • Theo lịch sử, sau cái chết đột ngột của vua Quang Trung (năm 1792), chúa Nguyễn Ánh phục hồi đạo binh, đánh chiếm Gia Định, Quy Nhơn, Phú Xuân rồi tiến thẳng vào Thăng Long (giữa năm 1802) chấm dứt triều đình Tây Sơn.

  • Theo truyền thuyết, sau khi lên ngôi Hoàng Đế, để tưởng nhớ đến công ơn của người Vú năm xưa, vua Gia Long cử người tìm về Ninh Hòa để đền đáp nghĩa ân, đến nơi được biết bà Vú đã mất. Nhà vua bèn giao chiếu chỉ cho xây dựng Lăng bà Vú vào cuối năm 1802 và hoàn tất năm 1804. Nghệ thuật kiến trúc, trang trí Lăng thuộc dòng nghệ thuật triều Nguyễn. Các mô típ trang trí rất phong phú về đề tài, chặt chẽ và hài hòa bố cục, triết lý sâu sắc về hình tượng, tác động lớn về Đạo học của thời hưng thịnh Nho giáo, Lão giáo, tinh xảo trong kỹ thuật thể hiện – cũng là một công trình văn hóa có giá trị nghệ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Lăng Bà Vú được xây dựng trong 2 năm, đến năm 1804 thì hoàn thành. Lăng được xây dựng trên gò đất cao phía cánh đồng, có không gian rộng, uy nghiêm, các yếu tố phong thủy đã được kết hợp và xử lý một cách hài hòa với không gian xung quanh. Tổng thể lăng được xây dựng theo hình chữ quốc, mặt xoay hướng đông nam có hồ sen rộng hình chữ nhật bằng vôi cát, lăng có 3 lớp thành xây bằng vôi, cát, gạch. Thành ngoài dài 20m, rộng 14m, cao 1,5m tạo thành khuôn viên bao bọc, có cửa nhỏ ra vào, 2 bên có hai con sư tử đắp bằng vôi, cát tô màu hồng rất đẹp.

Tiếp theo có án phong, có thành nội bao bọc khu mộ dài 12m, rộng 0,9m, cao 1,2m hình vòm cung. Hai bên cửa có hai con kỳ lân thể hiện khá tinh xảo. Ngôi mộ nằm chính giữa có bia đá khắc chữ Hán ghi lại sự tích công đức của Bà Vú.

Điều đáng lưu ý ở công trình là những hình trang trí đắp nổi trên những bức tường của lăng có từng chủ đề riêng biệt theo các tích xưa như: Nhị thập tứ hiếu, Trúc Lâm thất hiền, Ngư Tiều Canh Mục, Bát tiên, Chiêu Quân Cống Hồ... cùng với một số biểu tượng của người quân tử theo quan niệm của đạo Nho như: tùng, cúc, trúc, mai. Hoặc là những biểu tượng quen thuộc của đạo Lão như: thư, kiếm, phong, vân, tùng, đình, nai, hạc... Chất liệu chính để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bích họa này chỉ là vôi, cát cùng với màu sắc trộn với nhau và được đưa lên tường, song ở mỗi bức tranh các nghệ nhân xưa đã thể hiện một cách trau chuốt đến từng chi tiết cũng như toàn bộ bố cục của mỗi khung hình. Lăng Bà Vú được xem như một di tích kiến trúc nghệ thuật của Việt Nam.



Vì Bà không có con cái gia đình tế tự cho nên vua đã cấp một khu đất rộng cho dân trong vùng cày cấy, không phải nộp thuế để lo nhang khói. Tương truyền ngày giỗ của Bà vào ngày 16 tháng chạp hàng năm.



Sau bao năm bị lãng quên, nay Lăng Bà Vú được nhắc đến với danh hiệu "Di tích Lịch sử" của Tỉnh, đã được trùng tu mới mẻ, sạch đẹp sang trọng. Con đường vào Lăng thẳng tắp được bê tông hóa như tấm thảm trải dài để đón khách du lịch vào thăm Lăng như một biểu tượng, một tương lai tươi sáng, một nét son tô đẹp cho nền lịch sử văn hóa nước nhà, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.




  • Du lịch ba miền - Bửu Ngôn - Nhà xuất bản Trẻ ấn hành - tái bản nhiều lần.

Tọa độ: 12°15′00″B 109°11′00″Đ / 12,25°B 109,1833°Đ / 12.25; 109.1833






Comments

Popular posts from this blog

Lạm dụng chính trị tâm thần học ở Liên Xô

Viện nghiên cứu pháp y trung tâm Serbsky, cũng gọi ngắn gọn là Viện Serbsky (một phần của tòa nhà ở Moscow) Có sự lạm dụng chính trị có hệ thống đối với tâm thần học ở Liên Xô, [1] dựa trên việc giải thích Đối lập chính trị hoặc bất đồng chính kiến ​​như là một vấn đề tâm thần. [2] Nó được gọi là "cơ chế tâm lý học" của bất đồng chính kiến. người đã công khai bày tỏ niềm tin mâu thuẫn với giáo điều chính thức. [5] Thuật ngữ "nhiễm độc triết học", chẳng hạn, được áp dụng rộng rãi cho các rối loạn tâm thần được chẩn đoán khi mọi người không đồng ý với các nhà lãnh đạo Cộng sản của đất nước và, bằng cách đề cập đến các tác phẩm của các Cha của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, giáo sư Karl Marx, Friedrich Engels và Vladimir Lenin, đã biến chúng thành mục tiêu của sự chỉ trích. Điều 58-10 của Stal Bộ luật hình sự trong thời đại, "kích động chống Liên Xô", ở một mức độ đáng kể được bảo tồn trong Bộ luật hình sự RSFSR năm 1958

Saint-Martin-des-Champs, Seine-et-Marne – Wikipedia tiếng Việt

Saint-Martin-des-Champs Hành chính Quốc gia Pháp Vùng Île-de-France Tỉnh Seine-et-Marne Quận Provins Tổng La Ferté-Gaucher Liên xã none as of 2007 Xã (thị) trưởng Lysiane Germain (2008-2014) Thống kê Độ cao 112–186 m (367–610 ft) Diện tích đất 1 10,42 km 2 (4,02 sq mi) INSEE/Mã bưu chính 77423/ 77320 Saint-Martin-des-Champs là một xã ở tỉnh Seine-et-Marne, thuộc vùng Île-de-France ở miền bắc nước Pháp. Mục lục 1 Dân số 2 Xem thêm 3 Tham khảo 4 Liên kết ngoài Người dân ở Saint-Martin-des-Champs được gọi là Saint-Martiniens . Điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số là 552. Xã của tỉnh Seine-et-Marne 1999 Land Use, from IAURIF (Institute for Urban Planning and Development of the Paris-Île-de-France région (tiếng Anh) Map of Saint-Martin-des-Champs on Michelin (tiếng Anh) x t s Xã của tỉnh Seine-et-Marne Achères-la-Forêt  · Amillis  · Amponville  · Andrezel  · Annet-sur-Marne  · Arbonne-la-Forêt  · Argentières  · Armentières-en-Brie  · Arville  · Aubepierre-Ozou

Saint-Victoret – Wikipedia tiếng Việt

Tọa độ: 43°25′18″B 5°14′03″Đ  /  43,4216°B 5,23416°Đ  / 43.4216; 5.23416 Saint-Victoret Saint-Victoret Hành chính Quốc gia Pháp Vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur Tỉnh Bouches-du-Rhône Quận Istres Tổng Marignane Liên xã Marseille Provence Métropole Xã (thị) trưởng Claude Piccirillo (2001-2008) Thống kê Độ cao 15–120 m (49–394 ft) (bình quân 26 m/85 ft) Diện tích đất 1 4,73 km 2 (1,83 sq mi) INSEE/Mã bưu chính 13102/ 13730 Saint-Victoret là một xã ở tỉnh Bouches-du-Rhône, thuộc vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur ở miền nam nước Pháp. Xã của tỉnh Bouches-du-Rhône Bài viết chủ đề Pháp này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Saint-Victoret x t s Xã của tỉnh Bouches-du-Rhône Aix-en-Provence  · Allauch  · Alleins  · Arles  · Aubagne  · Aureille  · Auriol  · Aurons  · La Barben  · Barbentane  · Les Baux-de-Provence  · Beaurecueil